Nguồn gốc Kiến_Châu_Nữ_Chân

Sau khi nhà Nguyên sụp đổ vào năm 1368, nhiều nhóm kháng cự ở Đông Bắc vẫn tiếp tục trung thành với Nguyên. Năm 1375, Nạp Cáp Xuất (纳哈出, Nahacu), một viên quan của nhà Nguyên ở Liêu Dương đã tấn công Liêu Đông nhằm phục Nguyên. Mặc dù ông rốt cuộc đã bị nhà Minh đánh bại vào năm 1387, song để bảo vệ biên giới phía Bắc, nhà Minh đã quyết định "chiêu an" người Nữ Chân để đối phó với các vấn đề liên quan đến tàn dư của nhà Nguyên trong vùng.

Năm 1388, Minh Thái Tổ lập giao thiệp với ba bộ tộc ở khu vực Y La Đồ Môn (nơi hợp lưu của Mẫu Đơn GiangTùng Hoa) là Oát Đóa Lý (胡里改, Odori), Hồ Lý Cải (斡朵里, Huligai, Hūrha hay Hurka) và Thác Ôn (托温, Tuowen) và cố gắng lập liên minh với họ để chống lại người Mông Cổ. Ba bộ tộc này đã thiên di về phía Đông Nam đến khu vực quanh sông Đồ Môn (gần biên giới Trung-Nga-Triều ngày nay). Không lâu sau đó, các nhóm Nữ Chân khác nhau bắt đầu nhận tước hiệu của từ Minh Thành Tổ. A Cáp Xuất (阿哈出, Ahacu), tù trưởng Hồ Lý Cải bộ, trở thành đô đốc Kiến Châu vào năm 1403 theo tên một đơn vị hành chính của nhà Nguyên trong khu vực. Mãnh Ca Thiếp Mộc Nhi (猛哥帖木儿, Möngke Temür) của Oát Đóa Lý bộ trở thành Tả vệ Kiến Châu và được ban họ Hán là Đồng (童) không lâu sau đó. Hai bộ tộc Kiến Châu này tiến hành giao thương với Minh tại Khai NguyênPhủ Thuận. Họ cũng một vài lần tiến về phía tây, chiến đấu với Dã Nhân Nữ Chân ở phía bắc và Triều Tiên ở phía nam. Việc người Nữ Chân đột kích vào lãnh thổ Triều Tiên đã dẫn đến các cuộc phản công của liên quân Triều Tiên-Minh và các năm 1467 và 1478 khiến cho Kiến Châu Nữ Chân bị suy yếu nghiêm trọng.